Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên
Không
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk
Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là
17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo
(Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt
Nam.
Các cộng đồng cư dân nơi đây chủ yếu
sống bằng canh tác nông nghiệp truyền thống. Họ đã phát triển nhiều loại hình
nghề thủ công, sáng tạo ra nhiều phong cách trang trí và các kiểu nhà ở truyền
thống độc đáo của mình.
Tín ngưỡng chủ đạo của cư dân nơi đây
xuất phát từ tục thờ cúng tổ tiên, shaman giáo và thờ cúng vật linh. Gắn bó mật
thiết với cuộc sống hằng ngày của cư dân và chu kỳ các mùa trong năm, những tín
ngưỡng này hình thành nên một thế giới thần bí, nơi mà những chiếc cồng chiêng
là chiếc cầu nối thông linh giữa con người, thần linh và thế giới siêu nhiên.
Chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần. "Cồng chiêng
càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng"*. Hầu như nhà nào cũng có cồng
chiêng, thậm chí có gia đình có tới vài bộ. Điều này thể hiện sự giàu có và
quyền thế, đồng thời cũng là vật che chắn, bảo vệ cho gia đình.
Bao ngàn đời nay, cồng chiêng gắn với
Tây Nguyên như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và
trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho
trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả,
v.v. cho đến lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông
mới, v.v.
Có giả thuyết cho rằng văn hóa cồng
chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn, là nền văn hóa đồng thau xuất hiện tại
Đông Nam Á. Cồng chiêng của Việt Nam rất đặc trưng so với cồng chiêng ở những
khu vực khác do tính cộng đồng rất cao. Điều này thể hiện ở việc mỗi nhạc công
đánh một chiếc. Từng thành viên trong dàn nhạc nhớ rõ từng tiết tấu của từng bài
chiêng trong mỗi nghi lễ và kết hợp hài hòa với các nhạc công khác cùng chơi.
Tùy theo từng nhóm dân tộc, cồng chiêng được đánh bằng dùi hoặc bằng tay; mỗi
dàn cồng chiêng có khoảng từ 2 đến 13 chiếc có đường kính dao động từ 25 đến 120
cm.
Xưa nay, người Tây Nguyên không tự chế
tác mà mua cồng chiêng của người Kinh từ các vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, dân tộc
Lào hoặc Campuchia, rồi về nắn chỉnh lại để có được âm thanh mong muốn. Mỗi một
làng bản đều có một người chuyên lên chiêng (hay còn gọi là người chỉnh
chiêng).
Các quá trình chuyển biến về kinh tế,
xã hội và tín ngưỡng đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống của các cộng đồng
nơi đây. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ mai
một rất lớn. Việc gìn giữ và chuyển giao các tri thức và bí quyết về cồng chiêng
lại cho thế hệ tương lai gặp rất nhiều khó khăn. Phần vì nhiều nghệ nhân nắm giữ
bí quyết qua đời, nhiều người không còn biết hết các nghi lễ truyền thống, thế
hệ trẻ ít hoặc không quan tâm đến cồng chiêng do sức hút mạnh mẽ của cuộc sống
hiện đại và văn hóa du nhập. Ở nhiều nơi, cồng chiêng bị tước khỏi ý nghĩa
nguyên bản và không gian văn hóa linh thiêng. Cồng chiêng trở thành những vật
buôn bán trao đổi, tái chế phục vụ cho các mục đích khác.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên đã trở thành một Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của Nhân
loại, bên cạnh niềm tự hào là một trách nhiệm hết sức nặng nề và to lớn. Cồng
chiêng vốn là tài sản vô giá, được các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên sáng tạo và
không ngừng phát huy, trao truyền lại bao đời nay. Chính vì vậy, đối mặt với
những thử thách đó, Bộ Văn hóa - Thông tin đang chỉ đạo các cơ quan chức năng
cùng với cộng đồng có những hành động cụ thể nhằm khôi phục các giá trị truyền
thống, trả lại cho cồng chiêng linh hồn và cuộc sống đích thực của
nó.
* GS.TSKH Tô
Ngọc Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét